Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

CHUỘT CỐNG



                                        Chuột cống
                                                Truyện ngắn của Thái Sinh

Gia đình tôi chuyển về đây gần được một năm nay, người chủ trước sau khi giao chìa khoá bảo vợ chồng tôi:
- Ở mảnh đất này thiên thuận địa lợi, khí vượng làm ăn phát đạt, nhưng ghét nhất là lũ chuột cống. Chúng hoành hành dữ lắm, làm thế nào cũng không dẹp được...
Vợ tôi vốn là người đàn bà sắc sảo, thị cầm tinh con mèo, nghe vậy bỗng bật cười:
- Chuột cống hả? Việc trị lũ chuột ấy để tôi, chỉ cần ném cho mấy mồi bả là chúng lăn quay hết thôi mà...
Nhà tôi nằm ở cuối con đường, một phía giáp với cống dẫn nước từ hồ nước Mát ra bệnh viện đổ ra sông, phía sau nhà trước kia là khu lò gạch của HTX nay đã bỏ hoang. Theo sách cổ của người Trung Hoa thế đất của gia đình tôi thuận tiện cho việc làm ăn buôn bán. Có lẽ thế, nên khi nghe ai đó giới thiệu vợ tôi viện đủ lý lẽ để mua bằng được  mảnh đất này. Thị lôi từ đâu về một mớ sách báo in ảnh loè loẹt dúi vào tay tôi:
- Sách dạy cả đấy, anh cứ xem đi. Tôi tính chán cả rồi, nếu không lấy miếng đất này thì muôn năm tìm khắp thị trấn cũng chẳng có chỗ nào tốt hơn đâu...
Tất nhiên là tôi chiều theo ý thị, đôi khi cáu lên tôi đã mắng: “ Đồ cám bã, biết gì...” Vốn là người lười đọc, nhưng tôi biết thừa đám nhà báo, văn nghệ sĩ là một lũ mánh qué, lừa bịp. Còn thị, nếu cái gì thị đã tin thì khó lay chuyển được. “ Một điều nhịn là chín điều lành”, tôi tự nhủ như thế.
Thị đi loanh quanh khắp các gian phòng, gõ vào các bức tường, lay khuôn cửa rồi gật đầu với vẻ hài lòng lắm: “ Được, tốt!” Dường như thoả mãn, đêm đầu tiên về nhà mới thị ngủ như chết, miệng há hốc, ánh sáng ngọn đèn ngủ khiến da thịt thị xanh mướt, nhợt nhạt như kẻ chết trôi, nom khiếp quá.Tôi vốn thính ngủ, nghe thị ngáy lại lạ nhà nên không tài nào ngủ được, hết nhìn đăm đăm vào ngọn đèn cho mỏi mắt rồi lại đếm cũng không tài nào ngủ được. Tôi trở dậy lững thững đi ra phía sau, trong ánh sáng của ngọn đèn cao áp từ phía bệnh viện hắt lại, ngôi nhà tôi hiện mờ mờ cùng với các khoảng sáng tối càng khiến ngôi nhà của tôi nhuốc một màu ma quái. Tôi tiến lại phía tiếng chuột rúc gần bể nước, một cảnh tượng làm tôi kinh hoàng, một lũ chuột cống lúc nhúc nối đuôi nhau đi từ phía lò gạch xuống cống. Chúng đi nhộn nhạo, con nào cũng béo nung núc, to như con chó con, lông ánh màu lân tinh, khiếp quá. Chúng thản nhiên đi qua trước mặt tôi, việc tôi có mặt tại đó chẳng khiến chúng sợ hãi, đôi ba con còn dừng lại ngước gương mặt bẩn thỉu nhìn tôi rồi khịt khịt hai lỗ mũi như hăm doạ, trêu tức.
Máu trong người tôi sôi lên, tôi vớ một thanh củi nhằm một con to nhất đang bước đi khệnh khạng giáng xuống. Thanh củi gãy khấc, bay vù trở lại suýt văng vào mặt tôi. Có lẽ vì nóng giận nên tôi đã nhằm trượt, đàn chuột nhảy cẫng lên chạy tán loạn. Một con đang lôi kéo một cái gì đó vụt chạy qua chân tôi, cọ đám lông ướt dượt, nhầy nhụa khiến tôi rùng mình co vội chân lên, bất chợt khi đặt chân xuống tôi đạp phải cái đám bầy nhầy mà con chuột bỏ lại làm tôi trượt chân ngã oạch xuống. Cái tấm thân chẳng mấy to lớn của tôi trở thành vật ngáng đường lũ chuột, chúng phóng ào ào qua người tôi, khi tôi đứng lên được thì toàn thân bê bết bùn đất cống rãnh mà lũ chuột khi chạy qua để lại. Tức quá tôi chửi ầm lên đã đánh thức vợ tôi dậy. Thị cầm đèn pin với gương mặt ngái ngủ soi loang loáng lên người tôi, giọng gắt gỏng:
-  Đang đêm anh làm cái gì mà ầm ĩ lên thế?
-  Chuột, tại lũ chuột cô hiểu không? – Tôi chỉ cái vật bầy nhầy dưới đất- Nào, soi vào đây xem bọn quỉ bỏ lại cái gì.
Thị bước tới vừa soi đèn vừa cầm đoạn củi gãy khều cái vật dưới đất lên, tôi thoáng thấy thị rùng mình, giọng lạc đi:
- Trời ơi, sao lại thế này, thai nhi...
Hất đám bầy nhầy xuống cống, thị múc đầy xô nước dội ào ào tống khứ cái của nợ đó đi. Sau khi rửa ráy xong tự nhiên tôi thấy lạnh toát người, tôi vội trèo lên giường trùm chăn kín đầu định đánh một giấc tới sáng. Nhưng mà sao cái hình ảnh quái quỉ từ đâu đó ập tới cứ chờn vờn trước mắt tôi. Tôi nhớ ai đó đã kể rằng: Ở một bệnh viện nọ có một bầy chuột cống to lắm, chúng sống quanh quẩn cạnh nhà xác, nhiều trẻ sơ sinh bị chết vừa mang vào nhà xác chưa kịp chôn đã bị lũ chuột cống lôi đi mất. Vì thế mà các bệnh viện phải làm lồng sắt úp lên các tử thi để chống lũ chuột, nhiều khi sơ ý lồng úp không kín do vội vàng là bị chúng tấn công...Toàn những chuyện rùng rợn, ma quái và bịa đặt, khiến tôi chả thể nào ngủ được. Gần sáng thì tôi lên cơn sốt, có lẽ vì đêm qua cảm lạnh nên người tôi nóng hầm hập, đầu nhức như búa bổ, mồ hôi đầm đìa, khó nhọc lắm tôi mới nhỏm dậy lấy được mấy viên thuốc. Khi đó vợ tôi đã dậy, thị tong tả đi chợ chuẩn bị bữa cơm vào nhà mới trưa nay. Sau khi uống mấy viên thuốc tôi đỡ sốt hơn và bắt đầu ngủ lại, vừa chợp mắt tôi như  rơi vào cơn mộng mị.
...Lia tờ báo đã nhàu nát trước mặt tôi hắn hỏi:
- Cậu đọc bài báo này rồi chứ?
- Dạ,thưa anh em đã dọc rồi. Rất nhiều chi tiết không chính  xác...
- Nhưng nói chung là đúng chứ gì? Hắn cười khẩy- Mấy ngày nay tôi liên tiếp bị các “cụ” gọi. Cả bàn dân thiên hạ đang xôn xao về bài báo. Công ty đang ăn lên làm ra thì thế này đây, chỉ ít ngày nữa là Thanh tra sẽ xục vào. Thử hỏi tất cả những việc làm đó của tôi là vì ai, vì công ty, vì anh em hay vì tôi? Mấy thằng nhà báo thối mồm luôn chõ vào việc của người ta. Nhưng ai là người cung cấp tài liệu cho chúng, nếu không phải là nội bộ? Chẳng lẽ là tôi, cô Liên những người đã bị báo nêu?
Tôi nhớ trước đó vài tháng hắn gọi tôi lên, vừa ngáp một cái rõ to, đôi mắt gà gà nhìn tôi nửa cười cợt, nửa hờ hững:
- Thế nào, chú đã thảo xong bản hợp đồng rồi chứ? Bên B họ có ý kiến gì?
- Dạ, em đã làm xong, họ không có ý kiến gì chỉ chờ anh cho ngày giờ ký thôi- Tôi đáp.
- Tuần tới tôi và cô Liên đi Hà Nội giải quyết nốt số vật tư, cậu và ông Biển ở nhà thay tôi ký hợp đồng với B...
Nói vậy tức là hợp đồng đã được ký rồi, việc ăn chia đã thoả thuận, tôi và ông Biển chỉ làm cái việc hợp pháp hoá bản hợp đồng đó thôi. Điều gì sẽ xảy ra nếu sau này hợp đồng gặp trắc trở. Hắn đứng lên vuốt cái đầu bóng nhẫy rồi vỗ mạnh vào vai tôi.
- Phải mạnh dạn lên, rồi mai này công ty sẽ thuộc về tay các cậu chứ còn vào tay ai nữa? Sau bữa ấy tôi được “đề bạt” từ nhân viên phòng tài vụ lên Trưởng ban bảo vệ. Vợ tôi uất lắm, thị vốn có họ xa với bà Nhạn vợ ông chủ tịch, thị rít hai hàm răng:
- Chân lý thuộc kẻ mạnh, dù anh có thanh minh đến mấy hắn cũng chả tin. Thôi, anh cứ để hắn cho tôi, sức nó tôi chỉ búng một cái là đổ...
Bẵng đi một dạo chừng dăm sáu tháng sau những trận bão táp đã ngưng, không ai hề hấn gì, bởi tôi biết các “cụ” đã che chở, những người có liên quan chỉ bị kiểm điểm nội bộ. Nhưng xem ra hắn còn ngờ tôi cung cấp tài liệu cho nhà báo nên vẫn tìm cách hất tôi đi. Một hôm gia đình ông chủ tịch có việc, trước đó mấy ngày vợ tôi đi uốn tóc, sơn sửa móng tay, xắm váy áo, giày dép...cứ y như thị vừa đi mỹ viện về. Thị ngúng nguẩy bảo tôi:
- Ngày mai em phải giúp chị Nhạn tiếp khách. Toàn khách tỉnh không thể ăn mặc dúm dó được.
- Em hôm nay đẹp quá- Tôi buột miệng.
- Đừng nịnh thối - thị cười dí ngón tay vào trán tôi.
Hôm ấy hắn cũng có mặt tại nhà ông chủ tịch, sau bữa cơm bà Nhạn kéo hắn ra một góc chỉ vào vợ tôi:
- Hẳn anh chưa biết cô này, nó là em gái tôi, chồng nó là Trưởng ban bảo vệ chỗ anh. Nghe nhà tôi nói, tới đây sẽ kéo nó lên văn phòng làm thư ký cho ông ấy theo dõi khối tài mậu. Dù sao cậu ấy cũng được học hành tử tế, chắc anh đồng ý?
 Hắn há hốc mồm, giọng lắp bắp.
- Không thưa chị. Cậu ấy là người tốt, cán bộ nguồn của chúng em. Tất nhiên hiện nay chúng em đang thử thách, xin chị hiểu cho.
Chừng hai tuần sau vợ tôi từ nhà ông chủ tịch trở về, thị mở ví ném ra giữa bàn tờ giấy gấp đôi:
- Chị Nhạn gửi cho anh quyết định đề bạt đó. Ông Chánh văn phòng ạ, giờ thì ông đừng bảo tôi là đồ cám bã nhá- thị rót nước tồ tồ xuống cái cốc đặt trên bàn- Dẫu sao tối nay vợ chồng mình cũng nên đến nhà hắn, cảm ơn hắn vài câu cho phải phép.
Tối ấy thị mặc chiếc mini guýp, áo cổ rộng đi giày cao gót nom thị khá hấp dẫn. Tối ấy tôi thấy hắn chỉ chăm chắm nhìn vợ tôi, cái nhìn thô tục và đểu cáng. Khi chia tay, hắn tiễn vợ chồng tôi ra tận cổng, hắn bảo tôi:
- Tôi giao việc cho chú là tin tưởng chú lắm, chú phải cố gắng lên nhé...
Khi bắt tay vợ tôi, người hắn như khòm xuống cười đần độn.
- Em về nói với chị Nhạn xin chị ấy cứ tin ở anh, là chỗ thân tình của “cụ”, việc giúp đỡ cậu ấy không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của anh...
Chừng chín giờ thì vợ tôi đi chợ về, thị lay tôi dậy:
- Em vừa mua con béc dê giống Đức và con mèo Đại Hoàng về cho anh đây. Phen này lũ chuột cống chẳng còn đường mà chạy...
Tôi trở dậy người mệt bã bời. Con béc chừng ba tháng tuổi người gầy nhẳng, bị buộc bằng sợi dây vải ở xó nhà, con Đại Hoàng thì ngồi dúm dó bên đĩa cơm vợ tôi vừa xúc ra đặt dưới đất. Tôi nhẩm tính con béc kia phải dăm tháng nữa mới có thể tấn công được lũ chuột, chứ bây giờ sức nó khó có thể thắng nổi chúng.
Bữa cơm mừng nhà mới thị chỉ mời mấy người bạn là những chỗ làm ăn của thị. Có lẽ vừa qua cơn sốt nên uống được hai chén tôi đã phải xin phép mọi người lên giường đắp chăn. Nửa đêm nghe tiếng khụt khịt và tiếng chó sủa nhăng nhẳng phía sau nhà khiến tôi phải trở dậy. Trong ánh sáng mờ mờ tôi nhìn rõ con béc bị đám chuột cống vây quanh, chúng tấn công con béc từ mọi phía, khi con béc quay về phía này thì con phía sau lao tới. Cuộc đọ sức quyết liệt giữa bầy chuột cống với con béc ba tháng tuổi, chúng đánh phủ đầu nhằm gieo vào đầu óc nó một nỗi khiếp đảm, nhằm dập tắt mối hiểm hoạ sau này. Cuộc chiến chừng đã lâu, con béc dường như đã thấm mệt, nó nằm bẹp xuống chống cự yếu ớt. Vừa lúc đó tôi thấy xuất hiện một con chuột lớn từ dưới cống đi lên, con vật to hơn cả con béc kia, đầu nó chọc lốc, toàn thân phủ một lớp lông trắng. Bầy chuột giãn ra nhường lối cho nó, nó tiến lại phía con béc. Con béc há hốc mồm chưa kịp phản ứng thì nhanh như chớp nó lao vào hất tung con béc lên trời. Con béc vừa rơi xuống nó lại lao tới...Cứ thế con béc bị hất lên trời như một túm giẻ rách rơi vào sát chân bể nước, nó đè hai chân trước lên người con béc, có lẽ nó sẽ xé xác con béc trong chốc lát thôi. Tôi vơ vội thanh củi vừa la hét vừa quật túi bụi vào bầy chuột khiến chúng chạy nhảy tán loạn. Vợ tôi choàng dậy, thị lầu bầu:
- Đêm nào anh cũng  lục xục, la hét chẳng để ai ngủ cả...
Tôi chỉ vào con béc người bê bết bùn đất, mặt đầy máu bảo thị.
- Nếu không có tôi lũ chuột cống sẽ ăn thịt con này từ lâu rồi. Nhìn thân hình tơi tả của con vật đang nằm rên ư ử dưới chân, thị bực tức đá một nhát hất nó vào cửa bếp.
Đêm sau con béc không dám ra ngoài, nó nằm trong nhà sủa đàn chuột đi lại rậm rịch phía sau, điều đó càng làm tôi khó chịu. Hôm sau, trước lúc đến cơ quan tôi chạy mua mấy gói thuốc diệt chuột, phen này quyết diệt bằng hết lũ chuột khốn kiếp kia. Tối ấy tôi phi hành mỡ thơm phức rồi trộn cơm với thuốc chuột rải từ miệng cống suốt dọc đường đi của chúng và chuẩn bị một cái tải để sớm mai nhặt xác. Buổi sớm hôm ấy tôi dậy hơi muộn, tôi nghe tiếng vợ tru tréo:
- Thôi, thế là anh giết tôi rồi! Giết tôi rồi...
Tôi vùng dậy chạy ra ngoài xem vợ tôi la lối cái gì, thị nắm lấy cổ áo tôi giật mạnh.
- Tối qua anh bỏ thuốc chuột? Con Đại Hoàng ăn phải bả chuột chết rồi. Ôi, con mèo dòng giống của nhà vua mà tôi phải nhọc công mới tìm mua được...
Tôi bế con mèo lên tay, con vật còn nóng và đang thoi thóp, tôi quát thị:
- Đừng có tru tréo lên thế, nhanh lên pha cho tôi ít nước đường, tôi sẽ giải độc cho nó.
Tôi hấp tấp đổ từng thìa đường cho con vật khốn khổ, nó uống được vài thìa thì nôn ra, tôi lại đổ tiếp để nó nôn ra bằng hết thì thôi. Tôi ủ nó trong lòng bàn tay của mình cho đến khi nó mở được mắt vẫy cái đuôi bé xíu, vợ tôi khi đó mới reo lên:
- Thật phúc cho mày nhé, nếu tao không phát hiện sớm thì mày đã toi mạng rồi. Giống mèo Đại Hoàng này quí lắm anh ạ...
Ngày tháng cứ trôi qua, con béc và con Đại Hoàng mỗi ngày một lớn, lông nó bóng mượt nom hùng dũng lắm. Thế nhưng con béc hình như chưa quên trận chiến đêm nào với đám chuột, nó chỉ hực hực ra oai, dừng như không thèm chấp đám chuột cống hôi tanh kia.Con Đại Hoàng thì biết sức mình, vả lại nó thuộc dòng giống quyền quí cao sang, nó sinh ra đâu phải để bắt chuột? Tuy nhiên, lũ chuột nhắt trong nhà thấy bóng nó là khiếp vía kinh hồn. Thỉnh thoảng nó tóm được một con để vờn cho vui, như ngầm bảo với bà chủ rằng: “Tôi có ích với bà lắm đấy...” Còn đám chuột cống cả con béc và con Đại Hoàng đều làm ngơ, gia chúng đều như có sự thoả thuận ngầm: “Tốt nhất là chúng ta không nên động tới nhau...”
Tôi đoán thế, mỗi lần ra sau nhà nhìn thấy con đường đi của lũ chuột người tôi bứt rứt không yên. Con đường của lũ chuột hôi hám mòn hũng xuống, từ đây chúng toả đi các ngả tới bệnh viện, vào trại chăn nuôi, xục vào các bếp, kho lúa...gieo rắc bệnh tật và nỗi kinh hoàng cho không ít người. Tôi nghĩ phải chặn con đường của chúng. Xây bịt cái cống kia thì không được, vì đây là lối thoát nước của cả phố và cũng là lối thoát duy nhất của hồ nước về mùa mưa. Chỉ còn cách là lấy lưới sắt rào lại, buộc chúng phải tìm lối đi khác. Nghĩ thế và tôi làm thế. Đêm ấy tôi mở cửa sổ nhìn ra phía sau, trong ánh trăng suông tôi thấy cơ man là chuột. Chúng chạy nhông khắp sân giếng, rúc rít nghe thảm thiết lắm. Thế nhé, từ nay chúng bay tìm đường khác mà đi, tao kinh tởm cái mặt chúng mày lắm rồi. Tôi cảm thấy sướng nở từng khúc ruột.
Vợ tôi về khá muộn, thị ngã vào lòng tôi. Mấy tháng nay tôi thấy thị như người dở chứng, thỉnh thoảng lại như thế, tôi đã cố hết sức mình nhưng không thể nào thoả mãn được ngọn lửa tình đang ngút lên trong người thị. Dường như đã thoả, thị xoa đầu tôi:
- Chiều nay em lên chỗ sếp anh, lấy cho đứa bạn chữ ký, ông ấy khoe với em tới đây được đề bạt lên tỉnh. Nom ông ta có vẻ thô kệch nhưng mà tình cảm lắm nhé...
- Ừ, tình cảm...
Tôi chỉ ậm ừ cho qua chuyện, bởi lúc này tôi buồn ngủ quá. Trong giấc ngủ hình như tôi nghe thấy tiếng rục rịch cứ y như có người đang đào bới một cái gì đó dưới nền nhà. Tôi bật đèn trở dậy và rùng mình thấy một đàn chuột đang chạy nhảy giữa nhà, hình như chúng đang hát một bài ca của loài chuột. Chúng đứng quanh con chuột già to nhất có bộ lông trắng muốt, với dáng vẻ đường bệ, đôi mắt tinh ranh sắc sảo. Con chuột này chắc đã thành tinh, hắn đang ngửa mặt lên trần nhà, hàm răng vàng khè mòn vẹt. Mỗi lần nó rúc lên một tiếng khiến cả đàn chuột cùng rúc theo. Con béc và con Đại Hoàng giương mắt nhìn lũ chuột một cách vô cảm. Tôi điên tiết vớ chiếc ghế đẩu ném vào giữa đàn chuột, chúng chạy tán loạn con lao qua cửa sổ, con lao vào gậm giường, rồi kéo nhau ùn ùn qua lỗ cánh cửa bị chúng vừa khoét. Con chuột già khựng lại, nó giương đôi mắt nhìn tôi như thể hăm doạ, loáng một cái nó biến mất như một vệt sáng. Sớm ngày ra tôi thấy mấy đống đất cao như ụ mối quanh các chân tường.

- Thôi chết rồi, đêm qua lũ chuột đào đường hầm qua nền nhà tôi...
Lúc đó vợ tôi đã dậy, nhìn các đống đất và các hang hốc quanh chân tường, giọng chị thất thanh:
- Không khéo sập nhà mất, chúng đào lủng hết chân móng nhà rồi còn gì. tại sao lại thế này nhỉ?
Tôi chỉ vào chiếc lưới sắt rào ở miệng cống.
- Đêm qua tôi rào cái này vào đây...
Mặt thị đanh lại rít lên.
- Ai bảo ông chặn đường đi của chúng? Đây là con đường sinh sống, dẫu ông có ngàn lần bịt lại cũng không cản nổi bước chân của chúng đâu...
Thị gào lên rồi giật tung tấm lưới sắt ra:
- Chúng ta cần phải sống chung với cả lũ chuột, ông hiểu chứ?
Tôi không thể cãi lại thị, hình như thị nói đúng.
Và bây giờ, đêm đêm tôi nghe tiếng đàn chuột rồng rắn nhau qua chiếc cống cạnh nhà tôi, tiếng chúng rúc rít nghe rợn lắm.
                                                                              Ngày 21-12-1995
                                                                                            TS                                                                                                              

Thứ Hai, 11 tháng 7, 2016

VÙNG RỪNG XA XĂM




 VÙNG RỪNG XA XĂM
                                                                       Truyện ngắn của Thái Sinh

Trận mưa cuối thu còn vương lại chút bụi mờ rồi chấm dứt, để lại những vạt mây trắng nõn nà vấn vít trên các sườn núi, đỉnh rừng. Đã hơn hai năm đứng chân ở trạm gác rừng này Nam chẳng còn lạ gì thời tiết nơi đây. Tiễn biệt mùa thu là những ngày mưa kéo dài ba bốn ngày trời, núi rừng ẩm xì, giăng mắc trong màn mưa bụi trắng đục như sữa, con đường ngoằn nghèo về Bản Tác lầy lội những bước chân trâu, đám trẻ con đi học phải đeo ủng tới đầu gối, còn các cụ già phải chống gậy bước đi cho vững. 

Những ngày mưa dầm chẳng mấy khi Nam bước chân ra khỏi trạm gác rừng, anh hết đứng lại ngồi nhìn qua vuông cửa sổ mưa như rây bột lúc đậm lúc nhạt buồn não nề. Con suối Bản Tác bắt nguồn trên đỉnh núi Tà Pao chảy ầm ào qua trạm gác rừng nước màu nâu sẫm lạnh giá trước khi đổ ra ngòi Nhùa để nhập vào dòng sông Thao. Làng anh ở bên kia dòng sông, một ngôi làng bé nhỏ có rất nhiều cọ. Mỗi khi trở về khi nào nhìn thấy những đồi cọ lá non màu cốm xòe như tia nắng mặt trời, đồi nọ nối đồi kia đấy là làng của anh. Bây giờ người ta chặt gần hết các đồi cọ để thay thế những cây trồng khác, là keo, quế, bạch đàn hay là chè. Rừng cọ thu hẹp dần, mỗi nhà chỉ giữ lại vài chục cây để lợp chuồng trâu hay chuồng lợn. Ngày bé lũ trẻ chăn trâu thường chặt những cành cọ cắm khum khum ở bìa rừng để trú mưa, trú nắng. Sau mùa gặt chúng túa ra cánh đồng, quàng dây thừng lên sừng mặc cho đàn trâu chạy nhông nhông khắp nơi, còn chúng thì đi tìm các hang chuột hun khói. Cánh đồng nghi ngút khói cùng với tiếng hò reo của đám trẻ náo nhiệt vô cùng. Nam còn nhớ anh mang về một ổ chuột còn đỏ hỏn, nhai gạo bón cho chúng ăn. Mặc dù vậy, nhưng đám chuột lớn nhanh như thổi, mỗi ngày một khác. Sau ba bốn hôm thì mở mắt bò lổm ngổm trên bàn tay. Mẹ anh thấy thế thì la om xòm:
- Mùa màng thất bát vì lũ chuột, sao mày lại rước chúng về nhà nuôi, để chúng xơi hết những hạt thóc cuối cùng sao? Nói rồi bà hất cả ổ chuột cho mấy con mèo đang kêu khản cổ.
Trạm gác rừng có ba người, Nam là trạm trưởng nhưng mới hai chín tuổi  là người trẻ nhất, Hùng râu sấp xỉ bốn mươi, còn Tâm thì hơn anh bảy tuổi. Sau khi tốt nghiệp Trường Đại học Lâm nghiệp anh thi đỗ vào kiểm lâm khi mới 22 tuổi. Bảy năm trong ngành thì đi qua ba hạt Kiểm lâm, nơi nào ở lâu nhất là ba năm. Do có trình độ đại học nên hạt nào cũng muốn anh vào làm trong phòng kỹ thuật, anh không muốn suốt ngày thọc hai chân xuống gầm bàn nên xin vào trạm gác rừng Nà Hủ này. Thực tình anh muốn đến đây là để bổ sung thêm những kiến thức về rừng mà khi học ở trường còn rất nhiều khoảng trống. Rừng Nà Hủ là khu rừng nguyên sinh, được thành lập cách nay vài năm với tên gọi Khu Bảo tồn thiên nhiên Nà H, có tổng diện tích quy hoạch hơn bốn mươi ngàn héc ta rừng và đất rừng. Trong đó, khu bảo vệ nghiêm ngặt trên bảy ngàn hai trăm héc ta, phân khu phục hồi sinh thái gần mười ngàn héc ta. Đó là nơi anh ao ước bao năm trời nay mới được tới.
Phải vật vã gần một ngày trời Nam mới tới được trạm gác rừng Nà Hủ, con đường khi thì lầy lội, khi lại như bơi trên dòng suối cạn lổng khổng những đá, nhiều lúc phải dắt xe hoặc nhờ dân đẩy mới qua nổi những đoạn đường gập ghềnh luồn qua cánh rừng già nguyên thủy, giữa ban ngày mà ánh nắng mặt trời chỉ xuyên qua lờ mờ những tán lá rừng xanh đen. Xã Nà Hủ là dân chạy giặc từ các huyện Mường Khương, Si Ma Cai sau cuộc chiến tranh biên giới tháng 2/1979. Họ đến đây chủ yếu là dân tộc Mông, qua những câu chuyện truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, trong suốt nhiều thế kỷ họ chạy trốn những cuộc chiến tranh sắc tộc kéo dài từ bình nguyên sông Hoàng Hà do người Hán gây ra. Cứ theo những dãy núi họ xuôi xuống phía Nam, vùng núi phía Bắc Việt Nam đã chở che họ qua nhiều thế kỷ. Cuộc chiến tranh biên giới tháng 2/1979 đẩy họ xuống cánh rừng Nà Hủ, một vùng rừng nguyên sinh nằm lọt giữa những đỉnh núi xanh mờ nghìn năm không có dấu chân người.
Những người đầu tiên đến Nà Hủ là dân tộc Khơ Mú. Chuyện rằng, cách nay vài thế kỷ, những người Khơ Mú đã tới đây lập làng, dấu vết còn lại là những bờ ruộng bậc thang nằm dọc dòng suối Bản Tác đã bị trùm lấp bởi những cánh rừng đầy cây cối và lau sậy, nhiều cây to vài ba người ôm mới kín gốc. Một căn bệnh quái ác mà người Khơ Mú phải gánh chịu là chân tay họ cứ ngứa ngáy, chảy máu ròng ròng không thuốc nào chữa nổi, rụng dần từng đốt, cúng bao nhiêu lợn gà cũng không khỏi, quá sợ hãi vì mảnh đất ma ám nên họ bồng bế nhau đi mất. Sau này người ta mới biết đó là căn bệnh hủi thuộc hàng tứ chứng nan y. Từ đó, Nà Hủi đọc chệch ra thành Nà Hủ.
Nam đến trạm gác rừng khi mặt trời đã gác núi, anh dựng xe rồi quẳng chiếc ba lô lên hè, đi vòng quanh trạm một lượt. Trạm chẳng có ai, sân trạm rêu mọc xanh rì, chứng tỏ nơi đây chẳng mấy người qua lại. Căn bếp tối om, bốc mùi ẩm xì, hình như đã lâu căn bếp không nấu nướng thì phải. Anh ngồi xuống hè ngó mông lung ra cánh rừng trước mặt, đây sẽ là nơi anh gắn bó trong nhiều năm tới. Chiều dẫn sẫm lại, tiếng gà rừng xao xác tìm chỗ ngủ, bóng tối lan tỏa từ lớp cỏ dưới chân tới các bìa rừng, theo chân bóng tối là những loài ăn đêm tỉnh giấc. Bắt đầu là những chú dế, rồi ếch nhái nhảy ra từ các hang hốc, chúng hát bài ca bất tử, tất cả hòa vào nhau thành một chuỗi âm thanh hỗn tạp không đầu không cuối.
Có bước chân người bước rất nhanh trên lớp cỏ ướp đẫm sương đêm, Nam vừa ngẩng lên đã bắt gặp một gương mặt đen xì nhuốm đầy bóng tối. Giọng anh ta khàn đục:
- Nam à, tớ nghe tin chú mày được điều lên đây làm trạm trưởng bảo vệ rừng từ mấy hôm nay rồi. Hay quá! Trạm thêm người, tức là bọn tớ mới thỉnh thoảng được về nhà. Sống ôm trạm buồn nẫu ruột. Bởi thế, hay tin chú vào đây tớ phải vào rừng kiếm mấy con ếch rừng xào măng chua chào mừng. Thằng Tâm về nhà vài ngày nữa mới lên, đã hơn một tuần nay tớ ôm trạm nhưng mấy khi ăn cơm ở nhà lang thang vào các bản, gặp đâu ăn đấy, tối mới về trạm ngủ. Bây giờ chú mang ba lô vào nhà, cái giường bên tráí là chỗ ngủ của chú và thằng Tâm, giường bên phải của tớ. Chẳng đứa nào ngủ cùng tớ được đâu, vì cái tật gác chân và nghiến răng. Bây giờ thì chú mày nhóm bếp thổi cơm, gạo trong cái thùng tôn, chắc còn vài bữa nữa là phải mua rồi. Tớ mổ ếch, giống ếch rừng da nhớt lắm. Nhưng nấu canh măng chua thì ngon không thể chê nổi…
Đó là Hùng râu, anh ta nói một tràng như sợ người khác tranh nói mất. Hình như đã lâu anh mới gặp người nên nói nhiều như thế. Bếp ẩm, Nam nhóm mãi lửa mới cháy, khói mù mịt. Gần mười giờ đêm họ mới được ăn, chiếc máy phát điện mi ni chạy bằng sức nước chỉ đủ thắp sáng hai bóng đèn, khi ăn cơm họ phải tắt bóng dưới bếp dồn ánh sáng cho bóng trên nhà. Lúc này Nam mới nhìn rõ gương mặt râu ria xồm xoàm của Hùng, mái tóc dài xõa xuống phủ gần kín gương mặt tăm tối của anh. Cả tháng trời nằm ở trạm gác rừng nên tóc tai râu ria như thế là điều dễ hiểu. Khi đó cả hai đều đói, họ lặng lẽ ăn, gần cuối bữa Hùng mới bảo:
- Chú thấy món ếch nấu canh măng thế nào? Bọn anh mấy năm nay ở đây coi món này là món ăn trứ danh nhất. Nên trong các ống nứa ở góc bếp bao giờ cũng đầy ắp măng chua.
Im lặng một lát Hùng nhìn Nam nháy mắt:
- Chú mày trẻ, chắc còn ở đây lâu đấy. Mà cái nghề của mình là gắn bó với rừng, không ở khu rừng này thì ở khu rừng khác. Không thể trốn được, chỉ tội phải xa vợ con, thương vợ con mà chả giúp được gì. Chú đã có người yêu rồi chứ?
Đặt bát cơm xuống, Nam thở dài:
- Em có bạn gái rồi, nhưng cũng khó nói, hai người ở hai lĩnh vực khác nhau, nên cũng mong manh lắm…
Có lẽ đã khuya, sau khi ăn cơm xong hai người tắm gội qua loa rồi lên hai cái giường ngủ. Vừa nằm một lát Nam đã nghe tiếng Hùng nghiến răng ken két như tiếng mọt gỗ, đôi lúc lại thở phì phì như rắn hổ mang. Mặc dù gần một ngày đánh vật với con đường nhưng Nam vẫn không tài nào ngủ nổi. Anh nhớ tới Liên, người bạn gái đang là cán bộ ngân hàng huyện. Cha cô là giám đốc một chi nhánh ngân hàng dưới thành phố, Liên điều về ngân hàng huyện chỉ là bước đệm trước khi rút lên tỉnh. Nam quen biết Liên qua người anh trai của cô thời học phổ thông khi anh được mời đến nhà chơi. Đi lại một vài lần như thế, bố mẹ Liên quý anh vì sự thật thà của chàng thanh niên nông thôn thấy việc gì cũng xông vào làm. Sau khi yêu nhau Liên mới nói cho anh biết điều đó, cô bảo:
- Bố mẹ em làm ngân hàng, nên quý nhất tính thật thà. Hàng ngày ông phải ký hàng chục món vay, món trả nếu nhân viên dưới quyền không thật thà thì có ngày cả lãnh đạo và nhân viên dắt nhau vào tù. Em cũng vậy thôi, nhưng các cụ bảo: Thật quá hóa đần. Không biết sau này em có phải sống với ông chồng đần không?
Khi biết tin anh xin lên trạm gác rừng Nà Hủ, Liên không hài lòng lắm, cô bảo:
- Người ta xin xuống chẳng được anh lại xin lên rừng. Chẳng biết rừng có điều gì khiến anh mê đắm đến thế?
Nam không biết trả lời cô thế nào:
- Cái nghề của anh là gắn với rừng. Bây giờ còn trẻ thì đi xa, sau này mới có lý do xin về gần. Vả lại, anh hiểu về rừng quá ít, nên cần phải đến với rừng như chính em cần hiểu khách hàng của mình…
Vậy mà đã hơn hai năm rồi, không ngày nào Nam không vào rừng, anh đi từ sáng cho đến khi tối mịt mới về. Anh đã thống kê được hơn ba ngàn loài thực vật, trên một ngàn loài động vật, chỉ riêng loài lưỡng cư và bò sát đã có trên trăm loài. Theo trưởng bản Giàng A Châu khi người Mông đặt chân tới đây họ còn nhìn thấy vượn đen, một loài động vật quí hiếm bậc nhất của rừng nhiệt đới có tên trong sách đỏ Việt Nam và thế giới. Mỗi sớm trở dậy tiếng hót của chúng vang động khắp cánh rừng. Bởi thế, các cụ đã ví: Tiếng hót của vượn chính là linh hồn của rừng. Do nhiều năm bị săn bắn, đến nay cả vùng rừng mênh mông không còn nghe thấy tiếng vượn hót. Nam tự hỏi: Chúng đã bị tiêu diệt hết hay chúng đã bỏ cánh rừng này sang cánh rừng khác rồi? Nếu vậy thì còn may, còn chúng đã bị tiêu diệt hết là nỗi xót xa khôn cùng.
Hơn hai năm anh đã cùng những nhóm tuần rừng đặt chân gần khắp mọi ngóc ngách của cánh rừng rộng hơn bốn mươi ngàn héc ta. Rừng còn khá nguyên vẹn, trên nhiều dông núi cao hơn một ngàn mét có không ít nơi mọc thuần loài pơ mu rộng cả chục ha. Cây thẳng tắp như so đũa, nhiều cây phải năm, sáu người ôm mới kín gốc. Tính ra chúng đã có cả ngàn năm tuổi, những lớp địa y mọc quanh gốc dày đến nửa mét.
 Trên đỉnh dốc Ba Khuya có ngôi nhà sàn làm toàn bằng gỗ dựng từ trước khi anh đến đây cả chục năm, nơi người ta thu mua các loại lâm sản ngoài gỗ của người phụ nữ có tên là Dung. Anh chỉ nghe vậy nhưng chưa vào đấy lần nào, khi hỏi Hùng về chủ nhân ngôi nhà và các loại lâm sản họ mua thì Hùng gạt phắt:
- Họ chỉ thu mua những loại dây leo, nấm và linh chi hoang dại…những thứ không cấm. Tiêu thụ giúp bà con những sản phẩm kiếm được từ rừng nhằm tăng thêm thu nhập, chứ không có chuyện mua bán lâm sản trái phép. Chú cứ yên tâm là vậy, mấy năm anh ở đây theo dõi kỹ rồi, có động tĩnh gì là dân báo ngay.
Nói là vậy, nhưng trong những chuyến đi rừng anh vẫn bắt gặp những bãi gỗ xẻ, không ít còn rất mới. Hùng giải thích: Đó là người dân xẻ gỗ làm nhà. Sống ở rừng mà không cho người dân lấy gỗ làm nhà thì vô lý quá. Họ bảo vệ rừng cho ai? Luật của mình cứng nhắc quá, những cây gỗ đổ sao không cho người dân tận dụng xẻ làm nhà? Cấm ngặt quá, buộc người ta phải lén lút khai thác, khi đó kiểm lâm có ba đầu sáu tay cũng không bảo vệ được rừng…
Nam nghe cũng phải, nhưng theo dõi Bản Tác hai năm qua chỉ có hai nhà dựng mới, Làng Thượng dựng một nhà, Khe Cạn dựng ba nhà. Nhà người Mông dựng đơn giản, bất quá mỗi nhà chỉ xẻ hai cây gỗ đổ là đủ, có nhà không sử dụng hết một cây, bởi mỗi cây có tới năm, sáu chục mét khối, đường kính gốc có cây rộng tới bốn mét, trải đủ hai chiếu nằm. Nhưng anh đếm được có hơn chục bãi xẻ mới, có những tấm phản bỏ lại trong rừng vì bị sẹo rộng dài trên hai mét. Những xúc gỗ ấy không phải xẻ để làm nhà rồi, có điều gì khuất tất ở đây? Anh hỏi trưởng bản Giàng A Châu, ông cười bảo:
- Khó nói lắm cán bộ à! Người đổ các cây gỗ đó đều là người dân mình thôi, có người là anh em họ hàng. Cán bộ kiểm lâm không nói thì mình nói làm gì…
Nam hỏi Hùng:
- Liệu có sự lợi dụng việc xẻ gỗ làm nhà ở đây không mà cánh ta không biết?
Anh ta cười nhạt:
- Cũng phải giúp họ có đồng ra đồng vào chứ. Sống ở rừng làm gì ra tiền nếu chỉ trông vào mấy chục ngàn tiền bảo vệ rừng? Nhu cầu cuộc sống của người dân bây giờ không như ngày xưa nữa. Cuối tháng này huyện sẽ kéo điện lưới quốc gia xuyên rừng vào đây, bà con phải mua đài, sắm ti vi, rồi đường sắp làm xong người ta phải mua xe máy ai còn nuôi ngựa như xưa nữa. Muốn thế thì phải có tiền. Hãy đặt mình vào người dân mới thấy khó.
- Nhưng theo quy định của luật thì không thể làm thế được. Nếu mình làm ngơ thì rừng sẽ bị gặm nhấm qua năm tháng chẳng mấy chốc mà mất rừng.
Hùng lắc đầu:
- Mình không thể cứng nhắc như luật được. Chú là trạm trưởng chú cứ suy nghĩ tiếp đi, chú mới lên đây chưa thể hiểu hết cuộc sống của người dân nơi này đâu…
Trao đổi lại điều này với Tâm, anh ta bảo:
- Trước kia anh ấy là phụ trách trạm, có quyền ra lệnh cho bọn tôi làm. Bây giờ thì đến lượt cậu, chúng mình làm theo lệnh của cậu mà…
Nam cảm thấy có điều gì khó hiểu ở đây, hôm rồi bà Dung mang đến tặng trạm một chiếc ti vi:
- Mấy ngày nữa là có điện lưới quốc gia, chị tặng các chú chiếc ti vi để xem cho đỡ buồn.
 Nam không nghĩ đằng sau chuyện đó còn có động cơ gì khác, nên anh vui vẻ nhận. Còn bây giờ thì anh đã hiểu, chẳng lẽ lại mang chiếc ti vi trả lại cho bà ấy? Đôi lần Hùng bảo:
-  Chú lâu rồi không về thăm nhà, để bọn anh trực thay mấy ngày, đi lâu người yêu chẳng theo người khác thì anh cứ đi bằng  đầu.
 Khoảng hơn tháng nay Liên không mấy khi gọi điện cho anh, anh gọi hỏi thì cô trả lời:
- Anh cứ đi rừng suốt, gọi có được đâu. Em không muốn làm phiền anh nữa, mỗi người có sự đam mê của mình…
Từ trạm gác rừng trở về, anh vội tạt qua chỗ Liên cô ấy bảo: Em đang bận làm việc với khách hàng, cuối tuần anh qua nhà chơi…
Cuối tuần anh hai lần đến nhà thăm cô, lần thì nghe mẹ cô nói đang đi tiếp khách, lần thì bảo: Nó vừa cùng với mấy đứa bạn đi chơi rồi, chẳng hẹn khi nào về. Anh gọi điện thì cô không nghe, nhắn tin cô không nhắn lại. Linh cảm mách bảo cho anh biết Liên không muốn gặp anh, cô ấy cố tình tránh mặt thì anh còn biết làm gì nữa. Thôi đành vậy, anh chạy xe lang thang trong thành phố một hồi rồi trở về nhà, hôm sau anh trở lại trạm gác rừng sớm.
Khi vừa về tới trạm thì trưởng bản Giàng A Châu đến, ông bảo:
- Tối nay cán bộ Nam xuống nhà tao uống rượu nhé, con Mỷ vừa tốt nghiệp Cao đẳng sư phạm mẫu giáo, nó sẽ xin về đây dạy học đấy…
Hơn hai năm anh sống ở trạm gác rừng nhiều lần đến nhà ông Châu nhưng chưa gặp Mỷ lần nào. Anh cũng chỉ nghe loáng thoáng ông có cô con gái đang đi học sư phạm mẫu giáo, tối nay anh sẽ xuống nhà ông uống rượu để tận mắt thấy cô giáo tương lai của bản mặt mũi thế nào. Anh không tin nổi vào mắt mình lần đầu tiên nhìn thấy Mỷ, cô mặc váy áo Mông, má đỏ lựng, hai mắt sáng long lanh, da trắng mịn như nõn chuối rừng. Sau mấy năm đi học dưới thành phố nhưng cái đẹp hoang dã của thiếu nữ vùng cao vẫn không phai nhòa trên nếp tóc quăn tự nhiên, đôi lông mày nhỏ xíu cong vút như lá lúa nhìn nghiêng, hàm răng trắng muốt, cô cười nghe tiếng như suối reo. Vợ chồng ông Châu tỏ ra rất vui, người đầu tiên ở Nà Hủ tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm mẫu giáo, ông mổ lợn mời cả bản tới uống rượu. Gần cuối bữa Mỷ mới bưng bát rượu tới chỗ anh:
- Em nghe bố em kể rất nhiều về anh, hôm nay mới gặp được anh. Xin được cạn với anh một bát rượu mừng cho người đã hết lòng vì cánh rừng che chở cho làng bản của em, mừng cho em được về đây dạy học…
Nam cũng chỉ nhớ được có thế, anh không biết mình đã cạn với Mỷ bao nhiêu bát rượu, khi tỉnh dậy anh thấy Mỷ đang ngồi bên cạnh. Nam bám vách nhà nhỏm dậy, giọng anh ái ngại:
- Hôm qua vui quá nên tôi uống hơi nhiều, tại uống thêm mấy bát rượu của Mỷ nên say không biết đường về. Ngại quá! Bây giờ thì tôi phải về thôi…
Khi ra tới cửa ông Châu nắm tay Nam kéo lại nói nhỏ:
- Hôm trước cán bộ về thăm nhà, họ cho mấy xe gỗ qua trạm, đêm qua cán bộ uống rượu ở nhà ta, họ cho một xe chở sập bằng gỗ gù hương lọt trạm đấy.
Nghe thế Nam bỗng ngớ người ra. Bây giờ thì anh đã hiểu. Những lần Hùng gợi ý anh về thăm nhà là khi họ cho xe vào chở gỗ ra khỏi rừng. Anh phải báo cáo sự việc này với hạt trưởng sớm thay đổi người, chứ không chẳng mấy chốc khu rừng này sẽ bị rút ruột do sự tiếp tay của kiểm lâm.
Sau những trận mưa cuối thu là bắt đầu vào mùa khô, rừng khô ráo hơn, Nam dự định chuyến tuần rừng kỳ này sẽ theo tuyến hang Dơi. Đó là nơi người dân Sung Dô vượt Giàng Pằng sang săn bắt thú rừng và khai thác gỗ lậu. Năm ngoái tổ tuần rừng đã bắt hai vụ xâm hại rừng ở đây, một vụ săn bắn thú rừng, một vụ khai thác gỗ trái phép. Họ lấy hang dơi là chỗ trú chân và cũng là nơi tập kết gỗ trước khi kéo gỗ vượt Giằng Pằng. Chuyến tuần rừng nào cũng phải mất từ bảy đến chục ngày, tổ phải chuẩn bị đủ lương thực trong những ngày đó. Hùng bảo anh:
- Chú cứ yên tâm đi với bà con, bọn anh gác trạm cho…
Đi được hai ngày thì ông Châu bảo anh:
- Mình và cán bộ phải về ngay, tôi vừa nhận được tin nhắn của con Mỷ, họ đã cho xe vào chở gỗ rồi đấy.
- Sao Mỷ biết mà nhắn cho ông?
- Tôi dặn mấy người anh em, khi nào thấy xe vào chở gỗ thì báo cho con Mỷ để nó nhắn cho tôi. Bà Dung và ông Hùng đã mua chuộc được gần hết người dân Bản Tác rồi, ai không nghe theo họ thì bị dọa đốt nhà. Thế là đành im chứ ai dám làm gì họ?
Nghe thế máu Nam sôi lên, anh để mọi người đi tuần rừng tiếp, còn anh và ông Châu quay lại bản. Khuya lắm họ mới về tới nhà, Hùng và Tâm đi đâu vắng, gọi điện thì chỉ nghe tút tút. Anh dắt xe máy ra khỏi trạm thì thấy lốp đã xẹp từ bao giờ, anh vội xuống bản mượn xe máy ông Châu, ông bảo:
- Mình cùng đi với cán bộ, có hai xe chở gỗ từ trong rừng ra, toàn sập lớn. Chắc bây giờ mới lên tới đèo Ba Khuya…
Nam cầm lái, khi lên tới đỉnh dốc Ba Khuya, nhà bà Dung còn sáng đèn nhưng không có ai. Anh vội leo lên xe máy phóng đi được chừng nửa cây số thì bắt gặp hai xe chở gỗ đang lao xuống dốc. Vừa điện báo cho đội kiểm lâm cơ động chặn đầu Nam tăng ga vượt lên trước hai chiếc xe chở đầy gỗ. Anh dựng xe bên lề đường, ông Châu đứng đó còn anh thì đứng ra gần giữa đường cầm chiếc cờ lệnh và bấm đèn pin ra hiệu cho xe dừng lại. Một chiếc đầu bù xù ló ra từ cửa ca bin quát lớn:
- Tránh ra thằng khốn! Chúng tao đã đặt cửa rồi, sao mày lại phá thối?
Nam huơ đèn pin tiếp tục phất cờ ra hiệu lệnh dừng xe. Chiếc xe lao tới như chực hất văng anh xuống vực, anh vội tránh được cái xe hung dữ đang lao ầm ầm qua. Anh tiếp tục ra đường chặn chiếc xe thứ hai, lần này thì anh đứng hẳn ra giữa đường. Thấy anh, chiếc xe không hề giảm tốc độ mà lại rồ ga lao thẳng vào anh. Ông Châu nghe tiếng va đập mạnh, ánh đèn pin loang loáng vẽ lên trời rồi mất hút sau bờ lau rậm bên lề đường, dưới ấy là vực thẳm. Ông nhìn theo chiếc xe chở gỗ hùng hổ lao đi nhưng không thấy Nam đâu, gọi không thấy anh trả lời. Sau một hồi quanh quẩn tìm Nam ông mới quay về báo tin cho dân bản biết chuyện gì đã xảy ra đêm qua.
Sáng sớm hôm sau người dân Bản Tác kéo nhau lên đèo Ba Khuya, họ lần theo vết máu tìm thấy Nam dưới vực sâu. Anh bị chiếc xe chở gỗ đâm vỡ ngực hất xuống vực chết ngay tại chỗ. Họ khiêng anh về trạm gác rừng rồi báo cho hạt kiểm lâm biết. Mỷ ngồi bệt xuống hiên nhà trạm gác rừng lặng lẽ khóc. Cô đi theo chiếc xe chở xác anh ra khỏi đất Nà Hủ, qua cánh rừng đại ngàn khuất dần dưới chân đèo Ba Khuya mới quay trở về bản.
  Phải mấy ngày sau Liên mới hay tin Nam mất trong khi đang làm nhiệm vụ. Cô choáng váng xếp đống tài liệu lại, bước thập thững ra ngoài cửa nhìn về phía cánh rừng xa xăm. Nước mắt cô tự nhiên ứa ra, cảm thấy mình như có lỗi với anh. 

                                                            Yên Bái 9/7/2016